Thông Tin Từ Compassion.vn:
Đây là một bản dịch được Compassion dịch từ bài gốc https://positivepsychology.com/positive-psychotherapy-research-effects-treatment. Tuy nhiên Positive Psychotherapy là một phương pháp còn rất mới ở Việt Nam, trong bài có rất nhiều thuật ngữ mới, và khó chuyển ngữ. Compassion mong độc giả có thể tra cứu thêm để hiểu. Đồng thời, chúng tôi cũng đang tìm kiếm nhà chuyên môn/chuyên gia có chuyên môn về Positive Psychology hoặc cụ thể Positive Psychotherapy để cùng nâng cấp chất lượng bản dịch và hiệu đính nội dung. Nếu anh/chị, bạn có thể hỗ trợ, xin mời tham gia cùng chúng tôi tại: www.compassion.vn/crowdsourcing (xin nhờ ghi chú rõ trong form liên hệ, ví dụ: 'cộng tác nội dung Positive Psychology hoặc Positive Psychotherapy').
Bài viết gồm hai phần:
- Phần 1: https://www.compassion.vn/post/tâm-lý-trị-liệu-tích-cực-positive-psychotherapy-là-gì-lợi-ích-của-mô-hình-trị-liệu-này-phần-1
- Phần 2: https://www.compassion.vn/post/tâm-lý-trị-liệu-tích-cực-positive-psychotherapy-là-gì-lợi-ích-của-mô-hình-trị-liệu-này-phần-2
Tìm kiếm một hình thức trị liệu nào đó có thể khiến chúng ta cảm thấy nản lòng. Chúng ta thường nhận ra rằng chúng ta có thể hưởng lợi từ sự hỗ trợ từ bên ngoài một cách từ từ và đối với nhiều người, bước tiếp theo có thể bị che mờ bởi nỗi sợ hãi bên trong:
Nhà trị liệu sẽ nói gì về tôi và hành vi của tôi?
Những thiếu sót nào họ sẽ phát hiện ra và ấn định cho tôi?
Làm thế nào mà điều này thay đổi được cách tôi suy nghĩ và cảm nhận về bản thân?
Tất cả các liệu pháp nên tập trung vào việc nuôi dưỡng những khía cạnh tích cực của một người và cách họ tiếp xúc với thế giới và những người khác xung quanh họ, để họ có thể bắt đầu khám phá những mặt phát triển mà họ chưa biết đến và hướng tới tiềm năng đích thực của họ. Tâm lý trị liệu tích cực (Positive Psychotherapy) là một mô hình trị liệu như vậy nhằm mục đích định hướng lại phương pháp trị liệu để tập trung hơn vào việc hỗ trợ thân chủ sử dụng nguồn lực bên trong của họ để vượt qua thử thách. Giúp họ hiểu và nhận ra các lĩnh vực tiềm năng, rồi tập trung vào khả năng phục hồi và ý thức về niềm vui sống.
Bài viết này bao gồm:
Phần 1:
Tâm lý trị liệu tích cực (Positive Psychotherapy) là gì?
Công trình của Nossrat Peseschkian và Lược sử của Tâm lý trị liệu tích cực
Năm lợi ích của Tâm lý trị liệu tích cực
Tâm lý trị liệu tích cực liên quan đến Tâm lý học tích cực như thế nào?
Phần 2:
3 can thiệp Tâm lý trị liệu tích cực
Mô hình Tâm lý trị liệu tích cực (bao gồm bảng mô tả một phiên trị liệu ngắn gọn)
20 Nguồn tài nguyên về Tâm lý trị liệu tích cực
Tâm lý trị liệu tích cực (Positive Psychotherapy - PPT) là gì? (Bao gồm cả các định nghĩa)
Tâm lý trị liệu tích cực là một phương pháp trị liệu tương đối mới, chịu ảnh hưởng của cả hai phương pháp tiếp cận nhân văn và tâm động học (psychodynamic) đối với chẩn đoán và điều trị. Trọng tâm cốt lõi của nó là thoát ra khỏi điều gì là "sai", hay những khía cạnh tiêu cực của một cá nhân, và thay vào đó hướng tới những gì tốt và tích cực. Seligman, Rashid và Parks (2006) đưa ra định nghĩa sau cho Tâm lý trị liệu tích cực liên quan đến trầm cảm:
Tâm lý trị liệu tích cực tương phản với các can thiệp tiêu chuẩn đối với trầm cảm bằng cách tăng cảm xúc tích cực, sự tham gia và ý nghĩa thay vì nhắm trực tiếp vào các triệu chứng trầm cảm.
Tâm lý trị liệu tích cực thường sử dụng một loạt các cách tiếp cận liên ngành về tâm lý trị liệu, bao gồm sử dụng các câu chuyện, ý tưởng và ẩn dụ đa văn hóa để giúp các cá nhân tạo ra một cái nhìn mới về sức khỏe tâm thần của họ theo những cách tích cực. Các nhà trị liệu sử dụng Tâm lý trị liệu tích cực thường mời cá nhân đặt mình vào những câu chuyện, để họ được trao quyền chủ động hơn trong quá trình chữa bệnh, và nhờ đó, trở thành "nhà trị liệu" của chính họ. Mặc dù nhấn mạnh vào tính tích cực và kết quả tích cực, lý thuyết chung về Tâm lý trị liệu tích cực cũng khẳng định rằng ba nguyên tắc cốt lõi cần được giải quyết để cho phép điều này xảy ra:
1. Nguyên tắc hy vọng: Nguyên tắc này khuyến khích cá nhân tập trung vào tính tích cực chung của con người, và những trải nghiệm tiêu cực sẽ được coi là có mục đích cao hơn bằng việc tái định hình tích cực. Bất kỳ sự gián đoạn nào đối với cảm giác hạnh phúc đều được khuyến khích khám phá và định hình lại như những tín hiệu cho thấy có sự mất cân bằng đòi hỏi phải giải quyết.
2. Nguyên tắc cân bằng: Nguyên tắc này kiểm tra cách chúng ta trải nghiệm sự bất mãn và phương pháp đối phó mà chúng ta có thể sử dụng để giải quyết vấn đề này. Theo Tâm lý trị liệu tích cực, các triệu chứng tiêu cực phát sinh khi các phương pháp đối phó này không hoạt động hiệu quả và các lĩnh vực trong cuộc sống của chúng ta mất cân bằng, cùng với sự bất mãn ảnh hưởng đến cách chúng ta suy nghĩ và cảm nhận.
Peseschkian (1979) đã xác định có bốn lĩnh vực chính mà chúng ta sẽ trải qua sự mất cân bằng: cơ thể/cảm nhận, thành tích/hoạt động, mối liên hệ/môi trường và mộng tưởng/tương lai. Đây là những lĩnh vực Tâm lý trị liệu tích cực tập trung vào khi khám phá và giải quyết nguyên tắc cân bằng.
3. Nguyên tắc tư vấn: Nguyên tắc này đưa ra năm giai đoạn trị liệu phải được thực hiện để giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong hai nguyên tắc trên, để đạt được kết quả tích cực:
Quan sát - những khi cá nhân kể lại một loạt các vấn đề, thách thức hoặc tình huống làm họ khó chịu và cả những vấn đề khiến họ hài lòng.
Tóm tắt - nhà trị liệu và cá nhân làm việc cùng nhau để khám phá và làm nổi bật mối tương quan giữa cảm giác/triệu chứng tiêu cực và khả năng thực sự của cá nhân đó.
Hỗ trợ theo tình huống - cá nhân được yêu cầu tập trung vào những đặc điểm tích cực của họ và những người xung quanh họ, những người cung cấp cho họ sự hỗ trợ đáng kể.
Phát biểu - cá nhân được khuyến khích thảo luận bằng lời nói và nói chuyện cởi mở về bất kỳ cảm giác, thách thức hoặc triệu chứng tiêu cực nào.
Phát triển các Mục tiêu - cá nhân được mời để hướng sự tập trung vào tương lai, đặt ra các mục tiêu tích cực và hình dung những cảm xúc tích cực mà họ muốn trau dồi, cũng như kết nối những điều này với các thế mạnh độc đáo của riêng họ.
Một thành phần cốt lõi khác của Tâm lý trị liệu tích cực là sự nhấn mạnh vào các khả năng cốt lõi. Theo lý thuyết Tâm lý trị liệu tích cực, tất cả mọi người - bất kể giới tính, tuổi tác, tầng lớp, dân tộc, hoặc các quan niệm cố hữu về sức khỏe tâm thần của họ - đều có hai khả năng cốt lõi:
Khả năng nhận thức: Khả năng của chúng ta để kết nối giữa các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống với những lý do quan trọng hơn đằng sau ý nghĩa không chỉ là sự tồn tại của chúng ta mà cả sự tồn tại của mọi thứ xung quanh chúng ta.
Khả năng yêu thương: Khả năng của chúng ta để phát triển cảm xúc và phát triển mối quan hệ giữa với những người khác.
Pesechkian (1979) đã kết luận rằng hai khả năng cốt lõi này là thứ nằm sau khả năng xa hơn của chúng ta. Tâm lý trị liệu tích cực tìm cách khám phá hai khả năng cốt lõi của cá nhân để có thể hiểu rõ hơn và, khi thích hợp, giải quyết sự mất cân bằng nhằm tạo ra kết quả tích cực bổ sung.
Do sự cởi mở của nó xung quanh việc sử dụng các câu chuyện và ý tưởng đa văn hóa, có một lời chỉ trích về Tâm lý trị liệu tích cực là nó không hiệu quả tốt trong xã hội phương Tây. Điều này là do thường có tập trung vào chủ nghĩa cá nhân và sự độc lập, và bằng cách không cho phép khám phá đủ các trải nghiệm tiêu cực hoặc chấn thương có thể được nhìn thấy để tầm thường hóa những trải nghiệm này. Nhìn chung, Tâm lý trị liệu tích cực đã được đón nhận rất tích cực trong cộng đồng tâm lý tích cực, với một số kết quả tuyệt vời.
Công trình của Nossrat Peseschkian và Lược sử của Tâm lý trị liệu tích cực
Mặc dù Seligman thường được coi là một trong những người đồng sáng lập Tâm lý trị liệu tích cực, các liệu pháp tương tự tập trung vào hạnh phúc hoặc chất lượng cuộc sống hơn là nhấn mạnh vào các triệu chứng trải nghiệm tiêu cực ở công trình trước của Seligman. Đáng chú ý nhất là Nossrat Peseschkian, một nhà trị liệu tâm lý, bác sĩ tâm thần và nhà thần kinh học người Iran, người hành nghề ở Đức vào những năm 1960. Bị ảnh hưởng bởi tâm lý học nhân văn, cùng với việc gặp gỡ giao lưu với nhiều nhà tâm lý học có ảnh hưởng và các nhà thực hành tâm linh, cũng như kinh nghiệm của chính ông khi làm việc với các thân chủ qua hơn hai mươi nền văn hóa, Peseschkian muốn tạo ra một mô hình trị liệu tích hợp tập trung vào những trải nghiệm tích cực bên cạnh sự nhạy cảm về văn hóa.
Vào những năm 1970, Peseschkian bắt đầu các bài giảng về mô hình trị liệu của mình và xuất bản bốn cuốn sách dựa trên Tâm lý trị liệu tích cực trong thời gian này. Đầu những năm 1970, Peseschkian gọi mô hình của mình là "Phân tích sự khác biệt". Năm 1977, ông xuất bản cuốn sách đầu tiên, "Tâm lý trị liệu tích cực", và sau đó đổi tên thành phương pháp của ông. Trong thời gian này, Tâm lý trị liệu tích cực đã được thừa nhận với quy trình đào tạo bài bản và thành lập Nhóm trị liệu tâm lý của Wiesbaden, Hiệp hội Tâm lý trị liệu tích cực Đức và Tạp chí Tâm lý trị liệu tích cực năm 1979.
Trong những năm 1980 và 1990, Tâm lý trị liệu tích cực đã phát triển về cấu trúc, sử dụng và thừa nhận là một lý thuyết phổ biến bên ngoài nước Đức, khi Peseschkian tới hơn 60 quốc gia để thực hiện các bài nói chuyện và thuyết trình, và mở hơn 30 trung tâm. Ông cũng tiếp tục xuất bản các cuốn sách, và cuốn ‘Wiesbaden Inventory for Positive Psychotherapy and Family Therapy’, cũng được xuất bản năm 1988.
Năm 1994, Trung tâm Tâm lý trị liệu tích cực quốc tế được thành lập, sau đó trở thành Hiệp hội Tâm lý trị liệu tích cực thế giới vào năm 2008. Nghiên cứu hiệu quả đầu tiên của Tâm lý trị liệu tích cực được thực hiện từ năm 1995 đến 1997, kết luận rằng Tâm lý trị liệu tích cực đã chứng minh ảnh hưởng trị liệu mạnh mẽ đối với một loạt các bệnh liên quan đến sức khỏe tâm thần.
Peseschkian không phải là người duy nhất nhận ra lợi ích của việc tập trung vào sự tích cực trong trị liệu. Trong thời gian này, một số nhà tâm lý học khác cũng khám phá các khái niệm tương tự.
Fordyce (1977) đã phát triển một can thiệp mang tên ‘Hạnh phúc" và làm việc với các sinh viên để giúp họ sử dụng một loạt 14 chiến thuật nhằm hỗ trợ họ phát triển cảm giác vui sống và hạnh phúc hơn. Những chiến thuật này đi kèm với các hướng dẫn chi tiết và bao gồm những thứ như giao tiếp xã hội, tham gia vào công việc có ý nghĩa, làm sâu sắc thêm mối quan hệ thân thiết với những người thân yêu và quản lý các kỳ vọng. Fordyce nhận thấy rằng những sinh viên sử dụng các chiến thuật và theo hướng dẫn thì hạnh phúc hơn và có ít triệu chứng trầm cảm hơn so với nhóm đối chứng.
Fava (1999) và Fava và Ruini (2003) đã phát triển Liệu pháp Vui Sống (Well-Being Therapy), tập trung vào việc xây dựng quyền làm chủ cá nhân trên các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống, bao gồm phát triển môi trường, cá nhân, mục đích sống, chấp nhận bản thân và các mối quan hệ tích cực với những người khác.
Bên cạnh cách tiếp cận của Peseschkian, Seligman chịu trách nhiệm phát triển mô hình Tâm lý trị liệu tích cực bên cạnh những quan niệm đương đại hơn về tâm lý học tích cực. Trong đó mô hình Peseschkian có tính tích hợp, đa ngành và tập trung vào các khái niệm đa văn hóa, thực hành Tâm lý trị liệu tích cực hiện đại hơn chủ yếu dựa trên khái niệm vui sống và hạnh phúc tổng thể của Seligman (Seligman, 2002). Điều quan trọng là phải thừa nhận rằng trong khi có những điểm tương tự nhau, thì cũng có một số khác biệt nhỏ giữa hai cách tiếp cận.
Năm lợi ích của Tâm lý trị liệu tích cực
Mục tiêu chính của Tâm lý trị liệu tích cực là giúp các cá nhân hiểu rõ hơn về các kỹ năng và khả năng họ có, và những bản thể họ có thể cần phát triển, để đạt được cảm giác cân bằng bên trong. Điều này đạt được bằng cách khám phá các nguồn lực bẩm sinh - thể chất, cảm xúc, tinh thần và nhận thức - cá nhân đã có và có thể cần trợ giúp để khai thác theo những cách tích cực. Có nhiều lợi ích của tâm lý trị liệu tích cực và theo cách tiếp cận sức khỏe tâm thần. Dưới đây tôi đã khám phá năm lợi ích lớn nhất chi tiết hơn:
1. Trao quyền cho mỗi cá nhân
Tâm lý trị liệu tích cực chú trọng mạnh mẽ vào việc giúp cá nhân kiểm tra các sức mạnh, kỹ năng và khả năng của họ theo một cách tích cực, điều đó làm tăng ý thức trao quyền và kiểm soát các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống của họ, cũng như khả năng xử lý các thách thức và trải nghiệm tiêu cực (Rashid, 2014).
Vai trò của nhà trị liệu trong mối quan hệ thân chủ - nhà trị liệu là khuyến khích cá nhân khám phá mọi thứ theo cách riêng của họ. Đặt cái tốt với cái xấu, giúp các cá nhân tìm thấy sự cân bằng mà họ cần để chấp nhận tất cả các phần của chính họ. Sự tích hợp các kỹ năng, nhược điểm, đức tính, điểm yếu và điểm mạnh này giúp xây dựng một góc nhìn cân bằng hơn thay vì chỉ đơn thuần là làm giảm các triệu chứng hoặc những gì thách thức họ.
2. Tái cấu trúc các triệu chứng tiêu cực theo hướng tích cực và tập trung vào sự cân bằng
Một lợi ích tuyệt vời của Tâm lý trị liệu tích cực là cách nó mang lại sự tiêu cực hòa hợp với sự tích cực. Mặc dù nghe có vẻ như mô hình chỉ tập trung vào tích cực và loại bỏ tiêu cực, nhưng nó tập trung nhiều hơn vào việc đưa hai mặt đó gần nhau lại và cân bằng. Cách tiếp cận này giúp các cá nhân hiểu rõ hơn về sức mạnh và kỹ năng của họ, nơi họ có thể có những khoảng trống và làm thế nào mà những điều này lại có thể duy trì cảm giác tiêu cực hoặc mất cân bằng nếu không được giải quyết theo một cách thích hợp.
3. Công nhận và hỗ trợ chuyển đổi văn hóa và các khác biệt
Bởi vì Tâm lý trị liệu tích cực khuyến khích trao quyền cho cá nhân, nó có thể giúp họ cảm thấy kiểm soát nhiều hơn trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống, ngay cả khi có thể cảm thấy rằng hoàn cảnh bên ngoài đang nắm quyền điều khiển. Điều này đã được chứng minh là đặc biệt có lợi cho các cá nhân gặp xung đột trong môi trường đa văn hóa hoặc các mối quan hệ.
Bontcheva và Huysse-Gaytandjieva (2013) khám phá ra việc di cư và những thách thức mà họ phải đối mặt khi chuyển đến các quốc gia và nền văn hóa mới. Họ phát hiện ra rằng những người áp dụng các kỹ thuật tâm lý trị liệu tích cực có khả năng vượt qua những thách thức này tốt hơn, với hai phần ba số người tham gia báo cáo các triệu chứng trầm cảm đã được giải quyết hoàn toàn.
4. Quản lý tốt hơn các kỳ vọng và kết quả trị liệu
Một lợi ích quan trọng khác của Tâm lý trị liệu tích cực là cách nó thừa nhận tầm quan trọng của mối quan hệ thân chủ - nhà trị liệu và cách các kỹ thuật tự định hướng được sử dụng là công cụ giúp các cá nhân tận dụng tối đa liệu pháp này (Rashid và Seligman, 2018). Với ý thức cao hơn về khả năng, sức mạnh và kỹ năng cá nhân, mỗi cá nhân có thể hiểu rõ hơn về hành trình sức khỏe tâm thần của họ và cách họ có thể hành động để cải thiện điều này. Do đó, các kỳ vọng trị liệu được quản lý tốt hơn và các cá nhân nhìn thấy kết quả của Tâm lý trị liệu tích cực không chỉ đơn thuần là loại bỏ các triệu chứng hoặc cảm giác tiêu cực.
5. Đã được chứng minh trợ giúp được một loạt các vấn đề về sức khỏe tâm thần
Tập trung vào các điểm mạnh và trau dồi các yếu tố tích cực của cuộc sống, Tâm lý trị liệu tích cực đã cho thấy mang lại nhiều lợi ích đối với một loạt các vấn đề về sức khỏe tâm thần bao gồm rối loạn tâm thần (Schrank et al., 2016), ý định tự tử (Johnson et al., 2010), trầm cảm (Seligman, Rashid, và Parks, 2006, Carver, Scheier và Segerstrom, 2010) và rối loạn nhân cách ranh giới (Uliaszek, 2016).
Tâm lý trị liệu tích cực liên quan đến Tâm lý học tích cực như thế nào?
Mặc dù hai cách tiếp cận nghe có vẻ rất giống nhau, nhưng có một số điểm khác nhau về cách mỗi người giải quyết các trải nghiệm cá nhân trong trị liệu. Tâm lý học tích cực được coi là đứa con tinh thần của Martin Seligman, được phát triển vào năm 1998, trong khi đó Tâm lý trị liệu tích cực thường được cho là của Nossrat Pesechkian, được phát triển lần đầu tiên vào năm 1968. Cả hai phương pháp đều thu hút ảnh hưởng từ sự nhân văn và mô hình tâm động học của tâm lý học.
Những điểm giống và khác nhau
Cả hai phương pháp đều nhấn mạnh vào sự phát triển cá nhân và tầm quan trọng của việc khai thác các nguồn lực và sức mạnh bẩm sinh để vượt qua các thách thức và trải nghiệm cảm xúc tiêu cực. Cả hai cũng làm việc với giả định rằng tất cả chúng ta đều tốt, và cần phải nỗ lực để điều đó hiển lộ ra khi những tác động bên ngoài ngăn cản chúng ta trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình.
Ngoài ra còn có một số khác biệt nhỏ về sắc thái, nhưng rất quan trọng:
Seligman đã nói rất nhiều về cả hai cách tiếp cận và cách chúng có liên quan đến nhau theo những cách cụ thể, chỉ ra rằng tâm lý trị liệu tích cực giúp các cá nhân vượt qua quá trình đau khổ để khám phá những hiểu biết sâu sắc hơn về niềm vui sống của họ (Seligman và Wyatt, 2008).
Mặc dù thừa nhận trải nghiệm tiêu cực hoặc chấn thương là một thành phần cốt lõi của nhiều phương pháp trị liệu, Seligman đã thừa nhận rằng tâm lý trị liệu tích cực sẽ tập trung nhiều vào tích cực hơn khi trải qua quá trình này.
(Hết Phần 1)
Khuyến cáo quan trọng về bài đăng: Các bài đăng trên Compassion.vn được thực hiện bằng cách sử dụng nguồn lực cộng đồng (được dịch lại từ các nguồn khác nhau hoặc do chuyên gia cộng tác viết) - Compassion luôn nỗ lực cải thiện chất lượng nội dung (bằng cách tối ưu hóa quy trình tại hotro.compassion.vn) và nâng cao tính chuyên môn (bằng cách cộng tác với chuyên gia tại:www.compassion.vn/expert). Tuy nhiên người đọc cần tự kiểm chứng lại thông tin và đặc biệt các bài đăng không thể thay thế các giải pháp cần chuyên môn khác như trị liệu, tham vấn, coaching... (bạn có thể tham khảo danh sách từ Compassion:www.compassion.vn/booking).
Người dịch: Trang ; Người biên tập: Anh Đào Lê
Chuyên gia review: Đang review bởi chuyên gia: www.compassion.vn/expert
Hình thức dịch: Dịch & biên tập theo hình thức crowdsourcing tại www.compassion.vn/crowdsourcing - Cộng tác làm nội dung tại đây
Comentarios